Phát triển Phe Hiệp ước (Nhật)

Các điều khoản của hiệp ước bị công chúng Nhật Bản chán ghét với nhiều người trong số họ cho rằng tỷ lệ 5:5:3 là cách để được coi họ là một chủng tộc kém cỏi hơn phương Tây.

Nội bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản bị chia thành hai phe đối lập, Phe Hiệp ước và Phe Hạm đội. Phe hiệp ước  tranh luận rằng Nhật Bản không thể đủ khả năng chạy đua vũ trang với các cường quốc phương Tây và hy vọng, thông qua ngoại giao, để khôi phục Liên minh Anh-Nhật. Ngoài ra, các giới hạn đề ra trong hiệp ước đã tạm thời đủ thỏa mãn lợi ích của nước Nhật.

Phe hiệp ước bao gồm những người theo chính trị cánh tả trong Hải quân, bao gồm những đô đốc có ảnh hưởng trong Bộ Hải quân như Takarabe Takeshi, Taniguchi Naomi, Yamanashi Katsunoshin, Sakonji SeizoHori Taikichi.

Trong những năm 1920, Phe Hiệp ước, được hỗ trợ bởi chính phủ dân sự, nắm ưu thế. Tuy nhiên,khi Hiệp ước Hải quân London hạn chế hơn được kí kết năm 1930 chia phe Hiệp ước chia thành hai phần. “Phe Hiệp ước chống đối London” đã thúc đẩy việc mở rộng quân sự và kinh tế vào Nam Thái Bình Dương, và do đó trở nên gần gũi hơn với Phe Hạm đội.

Với sự gia tăng của chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật trong thập niên 1930, xung đột ngày càng tăng với Hoa Kỳ vì vấn đề Trung Quốc, và sự bỏ qua trắng trợn các điều khoản của Hiệp ước bởi tất cả các cường quốc, phe Hạm đội dần dần giành được thế thượng phong. Hơn nữa, nhiều thành viên của Phe Hiệp ước có kinh nghiệm trực tiếp ở Anh hoặc Hoa Kỳ đã nghỉ hưu từ năm 1933-1934, bao gồm cả thầy của Yamamoto Isoroku, Hori Teikichi.

Vào ngày 29 tháng 12 năm 1934, chính phủ Nhật Bản đã thông báo chính thức rằng họ có ý định chấm dứt hiệp ước. Các điều khoản của nó vẫn có hiệu lực cho đến cuối năm 1936, nhưng nó không được gia hạn.